Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Nhìn Lại Cuộc Khởi Nghĩa Láng Linh – Bảy Thưa_đọc truyện sex hay việt

Nhìn Lại Cuộc Khởi Nghĩa Láng Linh – Bảy Thưa

Tác giả: Bùi Thụy Đào Nguyên


Nhân kỷ niệm 135 năm ngày mất của Quản cơ Trần Văn Thành
Trần Văn Thành (? -1873)(1) còn được gọi là Trần Vạn Thành (khi được thăng Chánh quản cơ, ông còn được gọi là Quản Cơ Thành hoặc được tín đồ giáo phái Bửu sơn kỳ hương gọi tôn là Đức Cố Quản), là một lãnh tụ phong trào kháng Pháp ở “Bảy Thưa - Láng Linh” vào cuối thế kỷ 19 tại An Giang thuộc Nam Bộ, Việt Nam.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

I.Tiểu sử:
Trần Văn Thành người ấp Bình Phú (Cồn nhỏ), xã Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Vợ ông tên Nguyễn Thị Thạnh, người xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Châu Phú, An Giang.(2)
Năm 1840, khoảng ngoài 20 tuổi, ông gia nhập quân ngũ giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, khởi quân chống lại cuộc bảo hộ của Việt Nam.
Nhờ có sức khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa, nên được làm suất đội, chỉ huy khoảng 50 lính, từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia). Sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng Chánh quản cơ (1945), chỉ huy khoảng 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc, để gìn giữ biên giới phía Tây Nam.
Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục Việt Nam, ông Thành được về nhàn dưỡng tại quê nhà.
Năm 1862, Pháp lấn chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, Trần Văn Thành nhanh chóng hưởng ứng lời kêu gọi chống giặc của triều đình.
Ngày 22 tháng 6 năm 1867, một đoàn tàu chiến Pháp do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, đến huy hiếp thành Châu Đốc, khiến tổng đốc Phan Khắc Thân phải đầu hàng.
Ngày 30 tháng 8 năm 1967, Phan Thanh Giản tuẫn tiết tại Vĩnh Long, sáu tỉnh Nam Kỳ mất hết vào tay Pháp.
Đứng trước tình thế nguy khổn đó, ông kéo toàn bộ quân lính thuộc quyền mình về Láng Linh - Bảy Thưa, gắp rút xây dựng căn cứ chống lại thực dân.
Cuộc khởi nghĩa kéo dài suốt 6 năm, gây cho đối phương nhiều tổn thất. Đầu năm 1873, Pháp cho người mang thư đến chiêu hàng, nhưng ông cương quyết từ chối, quyết tâm chống lại đối phương cho đến khi mất (ngày 21 tháng 3 năm 1873).

II.Mật khu Láng Linh - Bảy Thưa:
Thời bấy giờ, Lánh Linh - Bảy Thưa là một cánh đồng trũng phèn rộng bao la, không có kênh, rạch lớn ra vào, suốt năm chỉ gieo gặt một mùa lúa sạ. Phía Bắc giáp vùng biên giới núi Sam, Tây dựa Thất Sơn, Đông cặp sông Hậu giang, Nam giáp núi Ba Thê và Long Xuyên.
Ở đó, hằng năm vào những tháng nước lên (còn gọi là “mùa nước nổi” từ khoảng tháng 7 cho đến giữa tháng 10 âm lịch), là một biển nước mênh mông (vì thế có tên gọi Lánh Linh). Láng Linh tiếp giáp với một cánh đồng tương tự có tên là Bảy Thưa (vì nơi ấy mọc khá nhiều cây bảy thưa. Giống cây này giờ đây đã dần mất bóng, ngay tại dinh Sơn Trung chỉ còn 3 bụi cây non nhỏ nhoi).
Cả hai cánh đồng vào mùa khô, nước không cạn hẳn mà biến thành những ao đìa, mương rạch, những đầm lầy vô số đĩa vắt và cùng lau sậy, cỏ dại thi nhau chen chúc, trùm lấp...Tất cả tạo nên những địa thế thật hiểm trở.
Nhà Văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và mật khu này như sau:
“Trần Văn Thành từng tam gia những trận chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...
Ở những đoạn khác:
- Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ông rút lui về Láng Linh để xây dựng mật khu. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình... Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh miền Tiền Giang. Và Khi căn cứ phát triển, hương chức hội tề địa phương cũng ngầm giúp nghĩa quân.
- Do thám báo cáo: “đã có chiến hào và đồn lũy nhỏ nhằm án ngữ một đồn lớn, phòng tuyến là những bao gạo, bao muối chồng chất kè cây to, thêm lò đúc súng đạn với gang, sắt từ bên ngoài đưa vào”.
- Ông phong chức cai đội cho nghĩa quân. Mật khu này xưng danh hiệu là “ Thiên sơn Trung tự”, kiểu chùa chiền; quân đội thì lấy tên Gia Nghị cơ hoặc Giang Nghị cơ, khiến ta liên tưởng đến những đồn điền tổ chức thời Nguyễn Tri Phương, vùng biên giới. Còn gọi là dinh Sơn Trung hay Sơn Trung doanh.
Nhà sử học Phạm Văn Sơn cho biết thêm:
“ Số quân của ông Thành theo tờ trình của Pháp vào năm 1870 có khoảng 1200 quân (Sau khi càn quét “Hưng Trung doanh”, chủ tỉnh Long Xuyên Emile Puech ước lượng số nghĩa quân chỉ chừng 400 đến 500 người), đa số là tín đồ theo giáo phái Bửu Sơn kỳ hương . Xin nhắc rằng Đức Phật thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) lập ra đạo phái này và họ Trần là một cao đệ... Đức Phật thầy mất đi thì họ Trần kế tiếp việc hương khói, họ Trần ra kháng chiến, tất nhiên phải sử dụng đến lực lượng này”(Việt sử tân biên , Sài Gòn, 1962, tr.211)

III.Trận đồn Sơn Trung:

3.1Pháp chuẩn bị lực lượng:
Năm 1868, cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực bị dẹp tan, ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng.
Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào mật khu, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.
Nhà văn Sơn Nam kể:
“Tháng 2 năm 1872, Pháp bắt được một nghĩa quân đi mộ lính ở Long Xuyên. Và nhờ cai tổng Mun theo sát những người đặt lọp, giăng câu phía ngọn Mặc Cần Dưng (nay là Bình Hòa, Châu Thành, An Giang), nên đến gần mật khu. Hắn hoảng hốt khi thấy nghĩa quân tích cực củng cố công sự, lò đúc súng đang hoạt động ngày đêm...
Chủ tỉnh Long Xuyên tên Emile Puech xin chi viện thêm 40 lính Mã tà (Người Mã Lai (Malais) gọi người lính cảnh sát là matamata . Do đó đẻ ra danh từ "mã tà" (Vương Hồng Sển, Sàigòn năm xưa , NXB Xuân Thu, 1968, tr. 229)) từ Cần Thơ để tăng cường cho 60 Mã tà dưới tay hắn, đồng thời thông báo chủ tỉnh Châu Đốc, tùy khả năng mà hiệp đồng. Phó quản Hiếm trước kia từng ở hàng ngũ của Trần Văn Thành rồi đầu hàng, được cầm đầu toán lính nhỏ. Cánh quân mạnh nhất do phủ Trần Bá Tường (em ruột Trần Bá Lộc) chỉ huy...Viên chủ tỉnh Emile Puech là chỉ huy trưởng, đại úy Guyon làm trợ lý.( Sơn Nam, Lịch sử An Giang, NXB Tổng hợp An Giang, 1988, tr.68-71)
3.2Trận chiến đấu cuối cùng:
Ngày 19 tháng 3 năm 1873, tàu chiến Pháp đậu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng, rồi cho quân lính dùng xuồng nhỏ, tuyệt đối im lặng, tiến vào ngọn rạch.
Một hai ngày sau, biết được đối phương sắp tấn công, tiếng trống, tiếng kẻng của nghĩa quân bắt đầu khua và liên tục vang rền...
Nhà văn Sơn Nam viết:
“Tuy biết đang bị bao vây tứ phía và người Pháp có võ khí hữu hiệu, nhưng nghĩa quân và Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh, cương quyết đối phó. Đứng sau phòng tuyến thách thức bọn Pháp. Ông dùng loa chửi rủa thậm tệ, rồi day về phía nghĩa quân để động viên tinh thần.
Đến phút quyết liệt, ông mặc áo màu đỏ sậm (màu tấm trần điều mà giáo phái đang thờ phượng)và cắt từng lọn tóc của mình phân phát cho nghĩa quân (một kiểu giống như phù phép, cốt để thuộc hạ lên tinh thần).”(theo sách đã dẫn)
Phạm Văn Sơn ghi chuyện:
Đầu tháng hai 1973, Pháp xua quân vào phá đồn Hờ ở Cái Dầu, uy hiếp đường giồng Nghệ rồi kéo dần vào rừng. Họ nả đại bác lên phía trước và bắt dân chúng dọn đường sau. Quân Bảy Thưa tuy tinh thần rất cao, nhưng chống giữ không nổi. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần. Pháp không dám tiến mau vì ngột nắng và sợ đĩa. Ngày 20 tháng 2, quân Pháp từ Châu Đốc đánh vào đồn Cái Môn, súng quân Việt bắn không được xa, phát nổ phát không nên chẳng bao lâu Pháp quân tràn vào được.
Cùng ngày ấy từ phía Vĩnh Thanh, cờ Pháp tiến vào đuổi quân Việt tới ngọn rạch Hang Tra là nơi Trần Văn Thành chỉ huy chiến cuộc. Con thứ tư của ông Thành là Trần Văn Chái làm tiên phong, đề đốc Văn tức đội Văn giữ hậu tập. Đến gần tối thì Chái bị thương ở đùi.( Sau khi bị thương, Trần Văn Chái bị bắt và sau đó tuẫn tiết trong nhà ngục Châu Đốc, bỏ lại người yêu vừa mới hứa hôn, năm ấy Chái mới 18 tuổi), Văn tử trận…
Xong trận, Pháp thu hết các súng nặng, nhẹ; hủy hết cả lò đúc đạn dược, rồi nổi lửa đốt hết doanh trại của nghĩa quân 3 ngày mới tăt…”(Việt sử tân biên, sách đã dẫn)
Sau trận đánh, chủ tỉnh Emile Puech nhận xét:
“Cai tổng Lý Mun và Trần Bá Tường, từng tham gia đánh nhiều lần, nhưng trong trận này, quả là mất tinh thần. Họ gan lỳ khi bị bao vây, hứng chịu hỏa lực mạnh, chứng tỏ uy tín Trần Văn Thành khá lớn”(Sơn Nam, sách đã dẫn)

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

3.3Hy sinh:
Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế cho biết:
Sau khi “Bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại nặng, ông Thành rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873 (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam , NXB KHXH, Hà Nội, 1992.)
Có người lại cho rằng:
Ngày 20 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 âm lịch), quân Pháp tấn công vào đồn Hưng Trung là tổng hành dinh của nghĩa quân do Trần Văn Thành chỉ huy. Ông và các nghĩa quân của mình đã xả thân chiến đấu, nhưng chỉ cầm cự được đến tối thì thất thủ. Giặc Pháp không tìm được thi thể ông, nhưng có lẽ ông đã hi sinh trong trận chiến này. (4)
Nhà văn Sơn Nam không nói Trần Văn Thành chết lúc nào, lý do gì; ông chỉ cho biết:
Pháp “ đem xác Trần Văn Thành chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú, Châu Đốc), thêm xác của đội Văn (Pháp ghi là Vang) để nhằm ngăn chận những tin đồn thất thiệt cho rằng ông còn sống, đi lánh mặt và tiếp tục kháng chiến.(5)

IV.Nhận xét:
Nhận xét về con người Trần Văn Thành, đối phương viết:
“Vóc to lớn, mạnh khỏ, gương mặt nghiêm nghị, nhìn thấy là phải kính trọng và ngưỡng mộ, Ông hăng hoạt động, rất thông minh. Ông lập ra một đạo gọi là đạo Lành. Trong hầu hết các tỉnh ở đất Gia Định đều có tín đồ. Tín đồ từ các nơi vì tôn kính ông nên tới mật khu, mang theo nào lúa gạo, sắt (để rèn khí giới)...”
Đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì:
-Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu “ống lói”.
-Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân.
-Trần Văn Thành thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra “ bất chiến tự nhiên thành”. Thái độ của ông và nghĩa quân là “chiến đấu không thỏa hiệp”.(Sơn Nam , sách đã dẫn).

V.Di tích chính:
5.1Bửu Hương tự:
Bửu Hương tự tức chùa Láng Linh, hay gọi tắt là chùa Láng, thuộc xã Thạch Mỹ Tây, huyện Châu Phú, nằm giữa đồng lúa Láng linh, bên bờ kênh xáng Vịnh Tre (kênh Tri Tôn), cách thành phố Long Xuyên khoảng 50 km.
Đền thờ do ông Trần Văn Nhu, con trai trưởng của ông Trần Văn Thành đứng ra xây dựng vào năm 1897 để tưởng nhớ cha và các nghĩa quân khác.
Bia tưởng niệm tại Bửu Hưng tự ghi:
“Vào ngày 21-22 tháng 2 âm lịch năm 1913, trong lúc tín đồ cùng nhân dân đang làm lễ tưởng niệm lãnh tụ thì quân Pháp đến bắt giam 83 người. Sau khi kêu án, 76 người bị 2 năm tù giam ở Châu Đốc, 7 người bị 3 năm tù giam ngoài Côn Đảo.”
Hàng năm, vào các ngày 20, 21, 22, tháng 2 âm lịch (kỷ niệm ngày ông Trần Văn Thành hy sinh) và ngày 5 tháng 5 âm lịch (ngày bà Trần Văn Thành mất) là nhân dân tụ hội về đây rất đông để tưởng nhớ và ôn lại một thời chiến đấu oanh liệt và gian khổ của thuở nào.
Bửu Hương tự được xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa vào ngày 6 tháng 12 năm 1989
5.2Dinh Sơn Trung:
Từ Lộ tẻ Bình Hòa đi Tri Tôn, qua cầu sắt "chợ Cầu số 5", rẽ phải đi khoảng 4 cây số lộ đất nữa sẽ đến dinh Sơn Trung .
Dinh thuộc xã Vĩnh An, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Theo lời kể của Ban Quản lý di tích thì trước năm 2003, nơi đây có một ngôi chùa xây dựng sơ sài bằng cây lá (nên được gọi là Chùa Lá) trên một nền đất rất ẩm thấp, ngay địa điểmđặt bản doanh Sơn Trung khi xưa. Sau đó, người dân vì tôn kính, tưởng nhớ ông nên đã tự nguyện quyên góp tiền của, công sức tạo dựng mới một nơi lễ bái rộng lớn, khang trang và đẹp đẽ như ngày nay (hoàn thành năm 2007

VI.Tưởng nhớ:
Nho sĩ Cao Văn Cảo có thơ tưởng niệm
Vô danh dịch:
Non sông Hồng Lạc, giặc xâm lăng
Thẳng thắng, Trần công cố sức ngăn.
Trời đất biết cho lòng sốt sắng,
Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn.
Đền thờ tỏ dấu dân trong nước,
Thơ vịnh nêu tình khách viết văn.
Những đứa phản thần qua đến cửa,
Gục đầu, run mật, cặp mày nhăn.
Ngoài những dinh và đền thờ ở nhiều nơi, tên ông còn được đặt cho trường học, đường phố trong tỉnh An Giang.

Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.

Chú thích:
( 1)Theo Thạc sĩ Trần Văn Đông: Căn cứ vào quá trình hoạt động, có thể phỏng đoán ông sinh năm 1818 hoặc 1819, vào cuối triều Gia Long (Cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa, báo Thất Sơn số 45, 1999)
(2)Nguyễn Thị Thạnh (1825-1899), là người vợ hiền hậu, đảm đang và cũng là người góp nhiều công lao, nhất là về mặt hậu cần, trong công cuộc khởi nghĩa của chồng. Ông Thành và bà có 3 người con: một tên Trần Văn Nhu (1947-1914), còn gọi là Cậu hai nhà Láng (người miền Nam gọi con đầu lòng thứ hai), người lập ra Bửu Hương tự; người thứ hai không biết trai hay gái, không nghe ai nói đến; người thứ ba là Trần Văn Chái (1855-1873), người đã tham gia cuộc khởi nghĩa của cha mình.
Hiện phần mộ bà Thạnh ở gần Bửu Hương tự và Bửu Hương các tức trại ruộng của bà khi xưa.
(3)Có thể nói Trần Văn Thành là người đầu tiên dám nghĩ đến việc canh tác ở vùng trũng phèn này (theo Sơn Nam,Lịch sử An Giang, NXB Tổng hợp An Giang, 1988, tr.68-71)
(4) Theo web :http://vietkiem.com/forums/lofiversion/index.php/t12763.html
(5) Đến nay, nhiều người theo giáo phái Bửu Sơn kỳ hương vẫn tin rằng ông Thành không thể bị Pháp giết chết. Dọ hỏi, không ai biết mộ ông Thành và cậu Chái ở đâu. Trong khu mộ của dòng họ Trần ở gần chùa Bửu Hương tự, không có mộ của hai người. (theo Bùi Thụy Đào Nguyên, qua chuyến đi tìm hiểu mật khu Láng Linh - Bảy Thưa vào ngày 30 và 31 tháng 3 năm 2008).
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Phạm Ngũ Lão_đọc truyện sex hay việt

Phạm Ngũ Lão

Tác giả: nhiều tác giả

Tiểu sử
Phạm Ngũ Lão (1255-1320)
Phạm Ngũ Lão là vị tướng tài đời Trần, người làng Phù Ủng, huyện Ðường Hào (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Trần Quốc Tuấn biết ông là thanh niên có chí làm việc lớn nên đã thu nạp, gả con gái nuôi và tiến cử lên vua Trần.
Trong kháng chiến chống giặc Nguyên- Mông, Phạm Ngũ Lão đã lập nhiều công lớn, nổi tiếng đánh đâu thắng đấy. Ông vừa chăm võ nghệ vừa thích đọc sách ngâm thơ.
Khi ông mất, vua Trần Minh Tông nghỉ chầu năm ngày để tỏ lòng thương tiếc.
Phạm Ngũ Lão - theo tài liệu hiện còn - chỉ để lại một bài thơ "Thuật hoài" bày tỏ nỗi lòng mình.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Phan Chu Trinh_đọc truyện sex hay việt

Phan Chu Trinh

Tác giả: nhiều tác giả

Tiểu sử
Phan Chu Trinh, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Cha ông là Phan Văn Bình giữ một chức võ quan nhỏ, sau năm 1885 theo phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm chuyển vận sứ phụ trách việc quân lương. Sau khi kinh thành Huế thất thủ (1885), ông theo cha, tập luyện võ nghệ, bắn cung, cưỡi ngựa.
Năm cha mất, Phan Chu Trinh mới 16 tuổi, gia đình phải dựa vào sự lo liệu của người anh cả. Năm 1892, ông đi học, bạn cùng học là Huỳnh Thúc Kháng kém ông 4 tuổi. Ông nổi tiếng học giỏi.
Năm 1900, Phan Chu Trinh đỗ cử nhân; năm sau (1901), ông đỗ phó bảng. Năm 1902, ông vào học trường Hậu bổ, rồi ra làm quan với chức quan Thừa biện bộ Lễ. Tại triều đình, ông được chứng kiến cảnh mục nát hủ bại của quan trường, nên sinh ra chán nản, có khi vài tháng không đến cơ quan. Nhưng chính vào thời gian đó, ông giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm..., được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, Tân thư giới thiệu tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tư tưởng dân quyền của Rousseau, Montesquieu..., phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, cách mạng ở Pháp, Mỹ.
Tháng 7-1904, Phan Chu Trinh gặp Phan Bội Châu, hai người trở thành đôi bạn tâm đắc. Cuối năm đó, lấy cớ phải chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay anh cả đã mất, ông cáo quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước.
Mặc dù rất đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của ông trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, mà nhiệm vụ cấp bách là phải:
- Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế.
- Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.
- Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa...
Phan Chu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền.
Với phương châm đó, Phan Chu Trình cùng Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh phía nam (đến Phan Thiết). Ông lại một mình ra bắc, lên tận căn cứ Phồn Xương (Yên Thế, Bắc Giang) tìm gặp Hoàng Hoa Thám.
Năm 1906, nghe tin Phan Bội Châu lại mới lên đường xuất dương cùng Cường Để, ông cũng ra nước ngoài, định sang Nhật Bản tham gia. Nhưng đến nhà Lưu Vĩnh Phúc tại Quảng Đông, ông đã gặp Phan Bội Châu đang ở đấy. Hơn 10 ngày ở Quảng Đông, hai ông cùng nhau bàn bạc việc nước.
Sau đó, ông cùng Phan Bội Châu và Cường Để lên đường sang Nhật Bản. Ông tham quan các trường học, khảo cứu tình hình giáo dục, chính trị của Nhật Bản. Phan Chu Trinh rất hoan nghênh việc Phan Bội Châu đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng quân chủ muốn dựa vào ngôi vua của Phan Bội Châu.
Về nước, sau một thời gian, ông gửi cho Toàn quyền Paul Beau một bức thư dài đề ngày 15-8-1906.
Trong thư, Phan Chu Trinh chỉ trích Chính phủ Pháp không lo mở mang khai thác hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn.
Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị.
Trong bức thư ông tỏ ra quá tin vào truyền thống cũ của cách mạng Pháp và lòng tốt của thực dân Pháp. Có đoạn có những lời lẽ có phần nghiệt ngã, cứng nhắc đối với chủ trương bạo động và phong trào đấu tranh vũ trang của dân tộc. Mặt khác, Phan Chu Trinh còn phê phán đánh giá trình độ của nhân dân ta quá kém, để từ đó dẫn đến mức không tin cậy vào khả năng cách mạng của nhân dân.
Mặc dù vậy, bức thư một khi được công bố đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Tháng 7-1907, Phan Chu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp.
Đầu tháng 3-1908, cuộc nổi dậy đòi giảm sưu thuế của nông dân bùng nổ tại Quảng Nam, rồi lan ra các tỉnh. Khâm sứ Trung Kỳ nhờ Thống sứ Bắc Kỳ cho bắt Phan Chu Trinh tại Hà Nội ngày 31-3, sau đó giải về Huế giao cho Nam triều giam giữ. Hội đồng xét xử gồm các quan lại Nam triều, có Khâm sứ Trung Kỳ ngồi dự đã kết án chém. Nhưng do sự can thiệp kịp thời của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Liên minh nhân quyền tại Hà Nội, Phan Chu Trinh chỉ bị đày đi Côn Đảo.
Đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Đảo thẩm vấn riêng Phan Chu Trinh.
Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án được thiết lập, ông được "ân xá", nhưng buộc phải xuống ở Mỹ Tho để quản thúc. Sau đó ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31-10-1908 của Chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, Phan Chu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật đi theo đoàn này. Sang tới Pháp, ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Nhiều Việt kiều tại Pháp cũng đến với Phan Chu Trinh. Phan Chu Trinh cùng với Phan Văn Trường đã lập Hội đồng bào thân ái gồm những Việt kiều gắn bó với quê hương.
Ông viết bản điều trần về cuộc đấu tranh chống sưu thuế năm 1908 ở miền trung Việt Nam gửi Liên minh nhân quyền.
Cũng trong thời gian này, ông viết Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, cho rằng không thể nhìn Việt Nam một cách cô lập mà phải đặt trong mối quan hệ với thế giới, trước nhất là với các nước mạnh và với nước Pháp, cũng như không thể chỉ nhìn hiện tại mà phải nhìn lại lịch sử đã qua và phải tìm hiểu xu thế phát triển sắp tới, tạo nên cách nhìn cả thời lẫn thế.
Trong những năm sống ở thủ đô Pháp, ông làm nghề sửa ảnh, sống thanh bạch. Năm 1926, ông về nước và mất ở Sài Gòn.
Phan Chu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước chân chính, có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể khẳng định rằng ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ. Tuy nhiên, Phan Chu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ - dù là do thực dân nắm giữ - để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Sai lầm chính của ông chính là ảo tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của nước Pháp.
Dân chủ vốn không phải là một phần thưởng có thể ban phát. Nếu nhân dân không có nhân cách thì sao xứng đáng có quyền dân chủ? Lấy ai mà giành quyền dân chủ? Đại đa số nhân dân ta nhiệt tình yêu nước, sẵn sàng "đem máu đổi lấy quyền tự do" (Phan Bội Châu), đó chính là điểm căn bản của nhân cách Việt Nam.
Phan Chu Trinh rất sắc sảo nhìn ra yêu cầu dân chủ hóa đất nước, nhưng ông cũng không có điều kiện suy nghĩ kỹ càng về các chủ trương dân chủ hóa. Trong tư tưởng dân chủ của Phan Chu Trinh những thiếu sót quan trọng mà ông không nhận ra không chỉ ở chỗ Phan Bội Châu nói: "Nước không còn nữa thì chủ cái gì".
Song với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, sóng gió, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Phan Đình Phùng 28_đọc truyện sex hay việt

Trang 28 trong tổng số 28

Chương 21 Chết ở giữa rừng
Ai đọc Tam Quốc, tới lúc Khổng Minh nhắm mắt ở Ngũ Trượng Nguyên mà có cảm giác ngậm ngùi thống thiết ra sao, tôi tưởng đọc tới đoạn dưới đây có lẽ cũng phải có cảm giác ngậm ngùi thống thiết như thế.
Vì hai đàng tâm sự gần giống nhau, chí hướng gần giống nhau, gặp phải thời thế khó khăn vất vả gần giống nhau, cho đến chung cuộc hai đàng cũng gần giống nhau: chỉ vì nước mà lo, lo mà bệnh, bệnh mà chết ở giữa đường.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Xem đoạn trước, độc giả đã biết tình cảnh đói khát ốm đau khổ sợ, lạnh lùng của Phan và 2700 bại binh tàn tốt tụ họp ở trên núi Quạt ra thế nào.
Phan về tới núi Quạt nhằm ngày 12/10/1895. Lúc này thân hình đã liệt nhược và bệnh lị đã trầm trọng lắm rồi. Ai nấy đều rầu buồn lo ngại và đoán biết tướng tinh đã đến lúc u ám.

Tướng sĩ và gia nhân xúm nhau hầu hạ thuốc men ở bên mình cụ tối ngày sáng đêm. Các tướng thân cận thì có ba ông là Nguyễn Mục, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Khai; còn gia nhân thì có phu nhân tức là "cố nghuếch rừng" ở trên đầu sách đã nói vì sao có cái danh hiệu ấy, cả hai người con trai là Phan Bá Ngọc và Phan Đình Cam, lúc này cũng ở luôn bên giường bệnh phụ thân; thêm một người cháu kêu cụ bằng chú ruột nữa.
Một ngày, cụ đi lị không biết là mấy chục lần; người càng gầy, mắt càng hóm, sức càng đuối. Mệt quá, cụ nằm nhắm mắt lừ đừ thiêm thiếp; vậy mà người ta nghe chốc lát cụ lại trằn trọc thổn thức và thở dài nhè nhẹ. Chắc là lúc tâm sự quốc gia đang nhắc nhở kích thích ở bên trong.
Bệnh tình một ngày một nặng thêm, cụ cũng tự biết mình đã lâm vô cảnh thật tử nhất sinh rồi, thuốc men nhân lực không sao cứu vãn lại được nữa. Cho nên hễ nghe lúc nào trong mình hơi khỏe lại được giây lát, cụ dạy ông Nguyễn Quỳnh và hai ông kia ngồi gần kề bên giường để dặn dò việc quân.
Cụ vừa thở hổn hển vừa nói:
- Tôi với các ông đồng cừu khởi nghĩa đã mười năm nay, đến giờ công việc chắc hỏng muôn phần mà người lại vội phải chia lìa xa cách nhau, nghĩ đến nguồn cơn xiết bao thảm thiết. Nhưng mà cổ nhân đã nói không sai: "Mưu việc ở người, nên việc ở trời", việc trời đã sắp đặt lỡ rồi, sức người không làm sao đổi xoay chống chọi được nữa. Nay mai tôi chết, trong đám các ông, ai liệu có thể chạy ra ngoại quốc để vừa lánh mình, vừa cầu học được càng hay. Nếu không thì sớm lo giải tán binh sĩ đi, cho họ về nhà cày cấy làm ăn, còn các ông thì sắp đặt mà ra đầu hàng bên nghịch cho xong, chứ có vọng động can qua nữa, đã không cưỡng nổi với mệnh trời, lại kéo nhây cảnh khổ liên luỵ cho sinh dân, vô ích...
Các tướng đều bưng mặt khóc nức nở, không ai nói được câu gì.
Cụ lại vời phu nhân lại ngồi bên giường, và con cháu đứng sắp hàng trước mặt mà nói:
- Bấy lâu tôi lo việc nước đã không xong, mà cảnh quê nỗi nhà cũng phải biến hoạ tơi bời, nay giữa đường lỡ dở, tôi phải bỏ mà đi, biết bao mối di hận ôm ấp trong lòng, nói càng thêm đau mà nói cũng chẳng hết. Chỉ biết là số trời đã định sao thì mình phải chịu vậy, không chống nổi mà cũng không tránh được bao giờ. Thôi thì sau ngày giờ nào tôi nhắm mắt rồi, mấy mẹ con cứ ra hàng phục cho được an toàn; ta biết thế nào bên nghịch cũng có lương tâm quý trọng nghĩa khí của ta, chắc không nỡ hại vợ con ta đâu mà sợ.
Phu nhân ngồi nghe, nước mắt chảy xuống ròng ròng nãy giờ, tới đây mới gạt luỵ và nói:
- Xin ông tịnh dưỡng, may được bình phục, cho mẹ con tôi được theo hầu mãi ở trong chỗ gian nan cơ khổ thế mà vui, chứ ông bỏ đi một mình, tôi có sung sướng chi ở đời nữa...

Rồi cụ bảo người cháu tới bên dặn dò đinh ninh:

- Hễ chú nhắm mắt thì cháu dẫn thím và hai em cứ ra trước đồn Pháp mà tự thú. Cháu đã có học chắc biết "Chí thành chi đạo khả dĩ cảm nhân” (giữ đạo rất mực thành thật, tất nhiên có thể cảm được lòng người) ta quyết rằng người Pháp không xử tàn nhẫn đâu mà lo.
Nói vừa dứt lời, cụ truyền đem bút mực lại và bảo người cháu đứng đó chép lời cụ đọc. Ai cũng nghĩ rằng cụ đọc một tờ chúc thư hay là viết thư để lại cho Chính phủ bảo hộ, ký thác vợ con.

Người ta phỏng đoán sai hết.

Cụ đọc cho chép một bài thi cảm khái.
Bài thi như vầy:

Nhưng trường phụng mệnh thập canh đông,
Võ lược y nhiên vị tấu công,
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong,
Cửu trùng xa giá quan san ngoại,
Tứ hải nhân dân thuỷ hoả trung,
Trách vọng dũ long ưu dũ đại,
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.

Dịch nôm:

Nhung trường vâng mệnh đã mười đông,
Việc võ lôi thôi vẫn chẳng xong,
Dân đói kêu trời vang ổ nhạn,
Quân gian dậy đất rộn đàn ong,
Chín trùng lận đận miền quan tái.
Trăm họ phôi pha đám lửa nồng,
Trách vọng càng to càng mệt nhọc,
Tướng môn riêng hổ tiếng anh hùng.

Từ hôm đó trở đi, bệnh thể của cụ càng giờ càng thêm trầm trọng; thuốc men thay đổi nhiều phương cũng vô hiệu. Một vị danh y trong miền nghe tin cụ đau phải mạo hiểm muôn vàn mới lên được núi Quạt để trị bệnh cho cụ mà cũng không giảm chút nào.
Lối 8 giờ sáng ngày 13 tháng 11, cụ mất. Trước giây phút cuối cùng, cụ mở mắt ngó quanh chư tướng, hình như muốn nói gì nữa, nhưng hết hơi rồi không nói được nữa, chỉ thấy hai bên khóe mắt ứa luỵ, rồi thì nhắm luôn. Linh hồn thênh thang lên trên thế giới những anh hùng nghĩa sĩ cổ kim đông tây vì việc nước nhà hy sinh, không kể thành công hay là thất bại. Cụ hưởng thọ 49 tuổi. Khí tiết đầy tràn non nước Lam, Hồng, công việc ghi chép lịch sử Hồng Lạc.
Các hàng tướng sĩ như con mất cha mẹ, kêu gào khóc lóc, vang dậy núi non. Hồi nào Cao Thắng chết, họ thương khóc một, bây giờ họ khóc thương tới mười. Vì cái chết của Cao Thắng đau đớn cho nghĩa binh thiệt, nhưng còn có hy vọng ở cụ Phan, bây giờ cụ Phan mất, nghĩa binh phải tuyệt vọng hẳn.
Nhiều binh sĩ cả tháng nhịn đói nằm sương, mòn hơi hết sức, cũng không cầm đậu nỗi sự bi ai, đến đỗi thương quá, khóc quá rồi chết luôn. Có mấy chục người thân binh tự đâm cổ chết theo chủ tướng.

Ông Nguyễn Quỳnh tức thời xếp đặt việc tang, không dám để chậm trễ, vì e có sự bất trắc thình lình xảy tới chăng. Gia nhân và tướng sĩ cùng chọn ngày 16 là ngày an táng;
Tang lễ cử hành, cố nhiên đơn sơ và giản dị. Duy có việc tẩm liệm di thể của cụ, tướng sĩ hơi phí khổ tâm. Thay vì phải dùng quan tài như thường, tướng sĩ chặt cây gỗ vàng tâm thật lớn ở trong rừng, đem về khoét lũng thân cây, đặt di thể trong đó, trên đậy nắp gắn lại chắc chắn. Di thể mang áo mão tấn sĩ.
Đúng ngày an táng, tướng sĩ sắp hàng làm lể cử ai và lạy trước linh cữu, rồi rước linh cữu xuống táng dưới chân núi Quạt. Lúc linh cữu hạ huyệt rồi, trên chỉ đắp đất bằng phẳng, chứ không đắp cao lên thành mồ. Tướng sĩ dụng tâm chôn cất như thế, là vì phòng sợ mai sau có kẻ điềm chỉ mà mộ cụ bị khai quật lên chăng.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Quân Pháp không hay việc cụ Phan đã mất, vì tướng sĩ vẫn đóng trên núi Quạt như thường và giữ cách trầm tĩnh êm đềm, không lộ ra một hình tích gì bày tỏ cho bên ngoài biết trong quân vừa có đại biến. Duy có quân thứ các nơi nghe tin chủ tướng mất rồi, sinh ra chán nản, lần hồi tản tác, trở về quê hương, hoặc trốn qua Lào qua Xiêm cũng nhiều. Còn bản bộ tướng sĩ của Phan, thì vẫn theo hầu phu nhân để chờ ngày ra thú.
Cách mười mấy hôm sau, quân Pháp đi tuần, bắt được một tên nghĩa binh ở trên trại lén xuống xóm làng tìm mua lương thực. Trước còn dỗ dành, sau doạ bắn chết, nếu như không nói rõ binh tình trên núi, thành ra tên lính nọ phải thú thật rằng cụ Phan đã qua đời trên mười bữa nay và nó chỉ cả nơi chôn di thể nữa.
Quan quân buộc nó đi dẫn đường tới đào mộ lên lấy thi thể cụ Phan đem về.

Lạ thay! đêm bữa 29 ở trên sơn trại, phu nhân đang ngủ nằm mộng thấy cụ Phan hiển linh về, nói với phu nhân như vầy:

- Ngày mai ta thử ra trước mặt quân Pháp, xem chúng làm gì ta.
Phu nhân cho là điềm lạ, suy nghĩ phân vân. Té ra chiều bữa sau, là ngày 30, có tin báo lên sơn trại rằng: không hiểu sao quân lính bảo hộ biết chỗ, đã đào mộ cụ Phan lên đem về đồn Linh Cảm rồi. Trong mộng, cụ nói “ta thử ra trước mặt quân Pháp” là ám chỉ vào việc đào mả đó.

Mấy hôm sau phu nhân dẫn con cháu và các tuỳ tướng ra thú ở đồn Linh Cảm. Các quan binh Pháp tiếp đãi một cách tử tế. Một đoàn khác ra thú ở trước quân môn Nguyễn Thân.
Phu nhân và các người tuỳ tùng bị áp dẫn vô Huế nghị xử. Các tướng như Nguyễn Trạch, Nguyễn Mậu cả thảy 23 người bị chém. Còn phu nhân và con cháu thì bảo hộ giữ ở Huế ít lâu, rồi thả cho về làng Đông Thái an nghiệp.

Người ta thuật chuyện rằng cụ Phan và Cao Thắng, sau hiển thánh ở làng Khê Thượng, huyện Hương Khê, dân làng cảm mộ anh hùng, lập đền thờ tự, đến nay đang còn.
Nói về quân Pháp biết chỗ, khai quật được mả cụ Phan lên, đem di thể về đồn Linh Cảm giao cho Nguyễn Thân xem xét có phải thiệt là di thể Phan Đình Phùng không.
Bấy giờ Nguyễn Thân mới biết cụ Phan mất rồi, đắc chí, miệng cười ha hả, dơ tay lên ngang trán mà nói:
- Từ nay ta được ngủ yên rồi!
Hôm sau, lão sức đòi các phụ lão ở làng Đông Thái và họ hàng bà con cụ Phan lên đồn Linh Cảm nhìn nhận đích xác. Rồi đó Nguyễn Thân dở thủ đoạn “anh hùng" của lão để hành hạ tới nắm xương khô thịt nát của người cừu địch với lão mà lúc người ấy còn sống, lão không dám xuất trận giao phong, bây giờ người ta chết rồi mới lên mặt dương oai diệu võ.
Mà lão dương oai diệu võ cách nào?
Không nói ra thì bỏ quên mất sự thật, mà nói thì mình phải thương tâm và gớm ghiếc.
Nguyễn Thân sai đem di thể cụ Phan ra chỗ địa đầu của tổng Việt Yên, đổ dầu châm lửa mà đốt cho xương thịt cháy ra tro, rồi tro ấy trộn vào thuốc súng, nhồi trong súng thần công của ta mà bắn xuống La Giang.
Dân xã quanh miền, phải tuân lời sức của Nguyễn Thân ra đứng chứng kiến việc làm tàn nhẫn này; ai thấy cũng phải đau lòng và khinh thầm Nguyễn Thân trong bụng. Nguyễn Thân nay cũng qua đời lâu rồi, nếu ở dưới cửu nguyên có gặp cụ Phan, chắc lão không dám nhìn mặt.
Cụ Phan đã chết, nghĩa binh tự tan, Nguyễn Thân tự cho cái kết quả ấy là công trạng như trời của mình, mặc dù sự thật trận mạc gian nan chỉ là lính tập bảo hộ và các quan võ Pháp chỉ huy, còn Nguyễn Thân kéo đại binh ra từ tháng 5 tới giờ, không hề giao phong giáp trận với nghĩa binh họ Phan lần nào. Thế mà Nguyễn Thân tự nhận là công trận của mình, cho nên sai may một lá cờ bằng lụa đỏ thiệt lớn, trên viết 4 chữ thật lớn: "Tặc Phùng bố tử" nghĩa là "tên giặc Phùng sợ quá chết rồi", rồi sai lính thủ hạ vác lá cờ ấy, cỡi ngựa lưu tinh chạy đêm ngày, về kinh đô báo tin thắng trận.

Còn gan hơn nữa, Nguyễn Thân tự dựng bia đá khí khoang ghi chép công nghiệp mình ở trên đỉnh núi Tùng Sơn, sai tuần phủ Đinh Nho Quang soạn bài văn bia kỷ công có 8 câu 32 chữ như vầy:

Vệ giang chi anh,
Thạch trụ chi linh.
Thế xuất tuấn kiệt,
Vị xã tắc sinh.
Tây bình hữu tử,
Đẩu nam đại danh.
Hồng Lam thiên cổ,
Bi kệ tranh tranh

Đại ý nói khí thiêng sông núi Vệ Giang Thạch Trụ (quê hương Nguyễn Thân) chung đúc ra bậc người anh tài, cha truyền con nối, vì giang sơn xã tắc mà đẻ ra để giúp giang sơn xã tắc. Ngày trước cha đã anh hùng, giờ tới con cũng anh hùng, lập nên công nghiệp to tát, ghi chép ở khoảng sông Lam núi Hồng muôn đời.

Nhưng bia đá ấy có đứng được ở giữa non nước Hồng, Lam muôn đời, như câu văn nịnh hót của Đinh Nho Quang và cái kiêu khí mạo công của Nguyễn Thân đâu! Vì ba năm sau, bia đá ấy bị sét đánh bể ra mấy mảnh, rồi thì cỏ mọc rêu phong, ruồi bâu chuột ở; kế đó người Pháp lại phá trái núi ấy để cắm đường, thành ra bia đá mất hẳn tăm tích, không còn ai nhìn biết hồi trước nó toạ lạc ở chỗ nào nữa. Ý hẳn ông trời ghét kẻ tàn sát đồng loại, mạo nhận công lao, cho nên sai Thiên lôi đánh tan bia đá ấy đi chăng?

Nói gì sau lúc họ Phan qua đời rồi, tình thế bắt buộc nghĩa binh phải tự ra hàng đầu Nguyễn Thân; trong ý không khỏi có chỗ tin cậy và trông mong một người đồng bào quyền thế, tất sẽ bao dung che chở cho mình khỏi chết. Không dè Nguyễn Thân lại ra oai, tự tay chém giết hạng người bại trận quy hàng đó rất nhiều, không đợi tâu trình xét xử gì hết. Vì trong tay lão lúc ấy có thanh kiếm Thượng phương, cho phép "tiện nghi hành sự, tiền trảm hậu tấu" kia mà. Người ta oán hận lão không biết thế nào mà nói.
Thuở đó, văn thân Nghệ Tĩnh họp nhau, soạn ra câu đối truy điệu cụ Pha, ý tứ bao quát, văn tự hùng hồn, có thể gọi là một tiểu sự tóm tắt thân thế và sự nghiệp cụ Phan cũng được. Tôi muốn mượn ngay câu đối này làm câu kết thúc "Truyện Phan Đình Phùng" của tôi:

Thành bại anh hùng mạc luận, thử cô trung, thử đại nghĩa, thệ dữ chư quân tử thỉ chung. Châu chi anh, Mạc chi linh, độc thư mỗi niệm cương thường trọng. Khả hận giả thuỳ điên đại hạ, nhất mộc nan chi! Cung lãnh yên tiêu, thuỳ nhân bất tác thâm sơn oán. Huống đương nhật long phi vân ám cộng. Ta nhân sự vô thường khả lân La Việt giang sơn bách niên văn hiến phiên cung mã;
Cổ kim thiên địa vô cùng, nhi lưu thuỷ, nhi cao phong, đồng thử đại trượng phu Vũ trụ, Lam chi phong, Hồng chi tuyết, xung hàn vô nại bách tùng điêu Vị hà tai: hội quyết đồi ba, trung lưu để trụ! Tinh di vật hoán, hà nhân bất khởi cố viên tình? Cập thử thời nhạn tán phong xuy, kham thán thiên tâm mạc trợ. Độc thử Tùng Mai khí tiết, nhất tử tinh thần quán đẩu ngưu.

Chúng tôi tạm dịch như sau:

Anh hùng thành bại kể chi? Dạ sắt son, lòng vàng đá, thề cùng các bạn giữ trước sau. Mặc Châu đúc khí tinh anh, trung hiếu hẹn hò cùng sử sách. Ngao ngán nhẽ, lầu cao sắp đổ, một cột khó nâng; phòng vắng khói tan, liếc mắt non xanh thêm tức tối. Vả bây giờ rồng bay mây xám, xót xa việc thế khôn lường, những thương La Việt giang sơn, văn hiến trăm năm thành trận mạc;
Trời đất xưa nay thế mãi. Đá dựng ngước, nước chảy xuôi, đó vẫn non sông phường tuấn kiệt. Lam Hồng nổi cơn bão tuyết, bách tòng úa rụng luống xông pha. Đau đớn thay, đê vỡ sóng vồ, giữa dòng trụ đứng; sao dời vật đổi, ngảnh đầu người cũ phải bôn chôn. Đương lúc này gió thổi nhạn lìa, căm giận lòng trời cay nghiệt; riêng cảm Tùng Mai khí tiết, tinh thần một thác rạng trăng sao.

Trong câu đối này, những chữ Mặc, Châu, La, Việt, Lam, Hồng, Tùng, Mai, đều là tên riêng núi sông quê quán cụ Phan Đình Phùng.
HẾT
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Phan Đình Phùng 27_đọc truyện sex hay việt

Trang 27 trong tổng số 28

Chương 20 Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh
Độc giả đã biết trận Vụ Quang Sơn, cụ Phan khéo bố trí và thâu được kết quả ra thế nào. Quan quân (tức là binh lính của bảo hộ) vì quá khinh thường bên đối địch lại
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
bị trời mờ sáng về mùa lạnh, sương mù bịt bùng tứ phía, thành ra trúng kế của nghĩa binh mà đại bại. Nước trên nguồn tống xuống ào ào, với mấy trăm cây gỗ lim, cây nào cây nấy lớn tướng, xô đẩy quan quân phải ngã nhào ngộp nước mà chết có, bị đạn mà chết cũng có. Lại lúc bấy giờ một đội nghĩa binh mai phục bờ sông bên này nổi dậy vừa đánh chiêng trống vang trời, vừa chĩa súng loạn xạ, còn đội nghĩa binh giả thua mà chạy hồi này cũng quay trở lại tiếp chiến ở bờ sông bên kia, khiến cho quan quân mắc kẹt ở giữa sông, hốt hoảng lúng túng với nhau rồi bị cây và nước đẩy trôi đi, chứ không ngó thấy bờ bến ở đâu mà lên: vả lại hai bên bờ đều bị nghĩa binh chận đánh dữ dội, quan quân muốn lên bên nào cũng chẳng được.
Duy có mấy chục người có sức chịu đựng mạnh hơn, thì trôi theo dòng nước xuống mãi hạ lưu một đỗi rất xa, thế nước chảy bớt mạnh đi rồi, mới ngoi ngóp lội vô bờ mà chạy thoát thân. Ấy là những người sống sót; còn ba phần tư bị nước lôi cuốn chết chìm. Một lão ngư ông ở trên sông Vụ Quang nói chuyện rằng lão còn nhớ lúc đó người ta vớt lên được một trăm mười mấy cái xác là ít; cá sông được một bữa no nê, là vì thấy nhiều xác mất đùi hay nát bấy thân thể ra rồi.
Cụ Phan từ lúc khởi nghĩa đến giờ, có trận này là thắng lợi nhất, thống khoái nhất. Đã hơn một năm, nét mặt cụ Phan lúc nào cũng nghiêm, cũng buồn, cũng lo, nhưng hôm nay tướng sĩ ngó thấy lộ ra cái nét vui vẻ một chút. Tuy vậy, cái nét vui vẻ đó chỉ như bóng mặt trời giữa cơn giông tố, chỉ hé ra trong giây lát, rồi những đám mây u ám lại che khuất đi ngay.

Vì cũng là một trận chót hết của nghĩa binh Phan Đình Phùng.
Từ đây, thầy trò chỉ có việc chạy thất điên bát đảo và đói xanh mặt lòi xương cho đến cùng tuyệt thì thôi, không còn đánh chác gì được nữa.

Sau lúc thắng trận thu quân, nghĩa binh tụ họp ở bên khe núi, những súng đạn, đồ vật và lương thực đã bắt được của lính tập chất lại một đống. Phần nhiều súng đạn lính tập chìm sâu tận đáy sông hay là nước đánh trôi băng đâu mất. Nghĩa binh chịu khó lặn mò chỉ kiếm được có bốn chục khẩu súng và một ít đạn mà thôi.
Quân lính hối hả bắt nồi nấu cơm ăn để lấy lại sức khỏe đã chịu vất vả trọn đêm. Rồi thầy trò ngồi quần tụ trên những tảng đá bên khe, dưới bóng cây mát mẻ, ăn cơm rất vui vẻ ngon lành. Bữa ăn này thêm có vô số bánh mì, cá hộp và rượu chát vừa mới bắt được, tướng sĩ chia sớt với nhau mỗi người một miếng, gọi là bữa tiệc khao quân. Ai nấy lâu nay ăn đói mãi, đã não ruột mòn hơi, bây giờ được một bữa tinh thần khoan khoái, cơm bánh tràn trề, lại thêm mấy món ăn lạ, hầu hết chưa được nếm qua bao giờ, thành ra ăn uống với nhau ngon miệng hả lòng lắm. Nhiều người có cái cảm giác như được dự bữa đại yến của vua ban. Trong đám tướng sĩ, có năm ba người chân chất quê mùa hết sức, đến đỗi không dám để môi vào một nhễu rượu chát, vì tưởng là thuốc độc của bên địch cố ý để lại cho mình vớ được ham ăn thì chết. Đó cũng là một hạng tư tưởng khờ khạo như tướng sĩ trào đình ta buổi đầu, thấy lính Pháp to lớn phục phịch thì nghĩ đâu họ không biết chạy, hay là nghĩ vơ vẩn rằng đóng cây nhọn giữa lòng sông có thể đâm lũng tàu trận của Pháp vậy.
Một điều nên chú ý là bữa ăn này tướng sĩ ăn đông ăn tây, còn chủ soái là cụ Phan thì vẫn ăn mấy nắm cơm chấm muối như thường. Cụ nói những vật thực đã bắt được kia là công lao huyết hãn của tướng sĩ, giờ cụ khao thưởng hết cho tướng sĩ.
Ăn no lại sức rồi, bây giờ nghĩa binh toan tính hành động sao đây?
Thì chỉ có nước là tính đến thượng sách của 36 kế là hơn.
Vì sự thế bắt buộc phải vậy.
Phan bàn định với tướng sĩ:

- Ban đầu quân ta cùng đường gấp nước, đóng đồn ở vùng núi này chỉ tạm đỡ nhất thời mà thôi, ta đã nói trước rằng đây không phải là chỗ có thể trú chân trường cửu cho ta. Hồng phúc con sông giúp ta đánh thắng được một trận như hôm nay là may mắn quá rồi, đừng nên tưởng rằng trận thắng này tức là có thể lưu lại ở đây yên ổn được. Chỉ nội chiều nay hay là ngày mai, địch quân kéo đại đội binh mã tới báo thù quyết chiến với ta, thì ta làm sao? Cái diệu kế "Sa nang ông thuỷ" mới rồi chỉ dùng được một lần là hết, không ai để cho mình dùng được tới lần thứ hai. Lo đánh đã khó, mà lo ăn còn khó hơn. Thật khổ là việc lương thực bị nghẹt, không sao chuyển vận tiếp tế như mấy năm trước. Ví dụ quân Pháp lại không cần đánh ta, chỉ vây bọc trái núi này độ mười ngày luôn, cũng đủ làm cho quân ta chết đói nhăn răng hết. Bởi vậy, ta phải quyết kế lui chạy là hơn; mà phải lui chạy tức tốc mới được.

Ngừng lại ra dáng suy nghĩ một lát, Phan nói tiếp:
- Có mấy nơi quân ta có thể lui về đóng đồn, để ta đắn đo lựa chọn coi thử nơi nào phải hơn.
- Bẩm cụ, xin cho lui binh lên miền núi Khai Trướng có được không?

Nguyễn Mục hiến kế như vậy.
- Phải đó, ý kiến của tướng quân rất hiệp với ý kiến ta, ta vừa toan nói.

Tức thời cụ truyền lệnh cho tướng sĩ sắp đặt cho kịp đúng ngọ thì nổ trại kéo quân đi, không được trì hoãn. Cụ dặn dò tướng sĩ bỏ lại hết những đồ vật gì kềnh càng, vô dụng; ngoài ra khí giới, mỗi người chỉ được đem theo y phục vừa cần dùng thay đổi. Còn dư ít nhiều lương thực thì sang sớt ra từng bao nhỏ, đãy nhỏ, mỗi người đều đeo trên vai. Thế là ngoài khẩu súng để phòng đánh và túi gạo để phòng đói, quân sĩ không phải khiêng vác những quân nhu vật dụng nào khác, nặng nhọc, rộn ràng. Chủ ý Phan muốn cho quân sĩ nhẹ nhàng để đi cho mau, lên dốc xuống đèo cho dễ, rủi khi giữa đường có gặp địch quân cũng dể ẩn núp hay đối chiến.

Đúng ngọ, quân sĩ lên đường, nhắm phía Khai Trướng mà đi.
Núi Khai Trướng tục gọi là núi Giăng Màn, dịch nghĩa tên chữ ra tên nôm.
Qua phía bên kia núi Giăng Màn là địa phận của dân Mường. Phan liệu chừng ở núi Giăng Màn cũng không yên thân được nào, vả lại khó mua lúa gạo cho quân sĩ ăn, thành ra lại phải bỏ núi Giăng Màn kéo quân sang nương náu ở đất Mường.

Nghĩa binh lúc này trong lưng có tiền, nhưng chỉ khổ có một nỗi là không mua được lúa gạo mà ăn; phần bởi miệt này là thượng du, lúa gạo không được dồi dào như trung châu, phần bởi dân làng sợ lệnh của bảo hộ và Nguyễn Thân, dầu có lúa gạo dư dật có thể bán được, họ cũng chẳng dám bán cho nghĩa binh.

Ở đất Mường, nghĩa binh chỉ có thể mua khoai bắp để ăn trừ cơm. Sẵn có bắp nhiều, Phan mua trữ một nơi trong núi, trong ý muốn tích trữ lương thực và dưỡng sức quân sĩ ít lâu, rồi trở về chiến đấu một phen nữa. Tạm lánh ở đất Mường cốt có hai việc đó.

Bởi vậy cụ phát lệnh tiễn và viết mật thư sai ông Tán tương quân vụ Nguyễn Quýnh qua núi Quạt nhắm địa thế và cất dinh trại sẵn sàng, để nữa nghĩa binh trở về.

Dù có tráng chí như vậy mặc lòng, hồi này thực lực của nghĩa binh suy vi kiệt quệ lắm rồi, không khác gì người đau bại hai chân, bị vấp té nhào, nếu không có ai nâng đỡ thì khó bề tự mình dậy nổi. Nhưng Phan vẫn bền lòng vững chí, không hề vì những nông nổi chạy ngược chạy xuôi, nhịn đói nhịn khát, mà sinh ra chán nản chút nào.
Trong những cơn bôn ba cực khổ, có khi Phan với tướng sĩ ngồi bệt dưới đất chuyện vãn với nhau. Cụ thường nói đi nói lại về chuyện nhân lực thiên mạng và bày tỏ khí tiết của mình: nếu quả lòng trời quyết định rồi, không thể cho ta xoay trở lại thời thế được nữa, thì chỉ có một nước là chết để báo đáp cái ơn tri ngộ phú thác của vua Hàm Nghi và tấm lòng tín yêu của anh em hương quốc mà thôi. Ngoài cái chết ra, không còn có thể làm cách gì khác.
Hồi này tình thế đã nguy, mà Phan thường nói đến tiếng “chết” hoài, tướng sĩ nghi ngại và nói nhỏ với nhau cho là điềm gở.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Kể từ lúc Phan bắt đầu khởi binh năm 1885, đến hồi nói đây là năm 1895, trước sau 10 năm, mấy trăm kiện nhi theo trận mạc bô đào luôn bên mình cụ, trừ ra ít nhiều người đã chết ở sa trường, chết vì bệnh hoạn, còn lại bao nhiêu vẫn ngậm cay nuốt đắng mà theo, một bước không rời. Cụ khéo đối đãi và huấn luyện tướng sĩ, chẳng những rèn đúc họ cũng can đảm nhẫn nại như mình mà thôi, lại cảm hoá được tinh thần họ nữa. Ai nấy đều có chí mạnh, gan to, chẳng quản lưu ly, coi thường tính mạng. Nếu có thời vận và đủ lực lượng, thì tướng ấy, quân ấy có thể tung hoành chưa biết đến thế nào, đâu có tới nỗi phải lâm vào cảnh ngộ cùng khốn mà chết giữa rừng.
Phan và nghĩa binh sang trú túc ở đất Mường Cô Ta nhằm hồi tháng 8 năm Ất Mùi (1895). Nhưng chứ tưởng rằng cụ sang ở đất Mường xa xôi hiểm trở mà chắc yên ổn tấm thân. Là vì bảo hộ dò biết tin tức nghĩa binh nương náu chỗ nào, là phái quân lính đi tập nã ở chỗ đó. Thành ra nghĩa binh ở đâu cũng lo sợ giật mình hoài, không thể yên thân được. Lúc nào nghĩa binh cũng để sẵn khí giới và hành là bên mình, bất cứ trưa nắng hay đêm khuya, hễ nghe hơi động một chút là phải hấp tấp đi liền. Đi, không phải nghĩa là tướng sĩ sợ chiến đấu mà tránh: họ chỉ sợ có sự rủi ro thình lình xảy đến cho cụ Phan hơn là tính mệnh của mình.
Đang ở Cô Ta, nghe động chạy sang Cá Tang; đang ở Cá Tang, nghe động lại phải chạy qua Ban Bức. Nghĩa binh đổi dời quanh quẩn trong ba nơi ấy luôn mấy tháng trường rất là vất vả, cực khổ, không nơi nào dám ở yên một tuần; mà từ nơi này chạy qua nơi kia có phải gần gũi gì đâu, vì nó cách khoảng nhau hàng 36 giờ đồng hồ, đường lối hết sức gồ ghề, hiểm hóc. Tướng sĩ đã khéo biến báo, bứt các thứ giây trong rừng kết lại thành như giày dép để mang vào chân mà đi, thế mà có nhiều người còn đổ máu chân cẳng, đủ biết đường sá gian nan đến thế nào.
Ngó thấy tướng sĩ như vậy, Phan thương tâm quá, vùng lên khóc lớn vừa khóc vừa nói:
- Vì ta mà các ngươi phải khổ sở đau đớn trăm bề. Hay là các ngươi đem ta ra mà nạp cho Pháp, rồi ai nấy trở về quê hương an nghiệp làm ăn, kẻo để các ngươi chịu khổ sở đói khát mãi như vầy, lòng ta lấy làm bất nhẫn lắm.
Tướng sĩ xúm lại khuyên giải và chỉ tay lên trời mà thề rằng:
- Chúng tôi vui lòng theo cụ đến chết, cực khổ thế này có thắm gì đâu. Đến chết còn vui lòng, huống chi cực khổ thế mấy mà chịu không kham!
Tình cảnh lưu ly khốn khổ như vậy đã đành, còn chỗ thảm thiết hơn nữa, là vì lo nghĩ vất vả quá, rất nhiều tướng sĩ thụ bệnh, nguy hiểm nhất là bệnh lị. Trong mấy tháng nương náu ở đất Mường, chính cụ Phan cũng mắc phải bệnh lị đến nỗi không ăn, không uống gì được, vả lại có gì mà ăn, thuốc men bổ dưỡng chẳng có, thành ra gầy còm suy nhược rất mau. Người cụ bây giờ xanh xao ốm yếu, mà hai vành con mắt lúc nào cũng rươm rướm những giọt lệ thương cảm quá độ, không lúc nào khô. Thương cảm non sông, thương cảm cho thân thế mình, thương cảm những tướng sĩ theo mình; nhất là thương cảm đại sự hư hỏng cảnh ngộ long đong... Quân sĩ thấy ông chủ tướng bệnh hoạn ốm yếu đổi hẳn trước mắt như thế, ai nếu đều phải động lòng ứa luỵ.
Có mấy người cảm khích quá sức, đến nỗi rút gươm ra gào lớn: "Ta không mặt mũi nào ra hàng để cầu yên thân, cũng không nỡ lòng nào trông thấy cảnh tượng đau đớn mãi được, thà chết trước đi còn hơn", thế rồi tự đâm cổ mà chết tốt.
Xem thế đủ biết Phan cố kết được lòng người mạnh lắm, nhưng mà vận số nước non đến lúc cùn, và ý trời muốn tuyệt, thì biết làm thế nào?
Đã đói khát, trốn tránh, đã có bệnh tật trong mình, lại không được ở chỗ nào yên thân, nghĩa binh đến hồi này thật là thiên nguy vạn khổ. Quân lính bảo hộ dò theo tung tích mà dồn bức mãi sau lưng, không cho nghĩa binh được nghỉ ngơi trọn một ngày nào là ngày yên ổn, không phải giật mình. Chắc bảo hộ đoán biết nghĩa binh sắp tàn cuộc cho nên càng phải dõi theo dồn bức hoài, vì e để cho nghĩa binh yên nghỉ lâu lâu, tất lại có thế phục hưng tái khởi.
Bị quân Pháp ruồng ép trên đất Mường một cách nguy bức thái quá, Phan liệu thế ở nương náu quanh quẩn tại đất Mường cũng nguy, bèn quyết kế đêm đi ngày ẩn, lén lại trở về núi Quạt.
Giữa lúc bấy giờ, nghĩa binh các nơi đều rời rã tan tác không thể nào cứu ông nhau hay là giao thông tin tức gì với nhau được; bảo hộ sai quân tập nã tứ tung. Bao nhiêu quân thứ do Phan sắp đặt khi trước, bây giờ thứ nào bị đánh tan rồi không kể, còn thì đều chia đàn bể ổ, không có chỗ nào dung thân. Họ nghe tin cụ Phan trở về núi Quạt, bèn lục tục kéo cả về đây nương náu.

Nguy thay! Những lúc chỉ có đôi ba trăm người còn đói lên đói xuống, huống chi bây giờ tụ hợp 2700 mạng người ở một chỗ, thì lấy gì mà ăn?

Thành ra lúc này nghĩa binh tuyệt lương hẳn hoi.
Mấy tháng trốn tránh ở đất Mường Ban Bực, Phan có mua trữ được nhiều bắp, định bụng nay mai trở về mưu toan khôi phục, thì đem bắp ấy về làm quân lương đỡ ngặt trong ít lâu. Nhưng sau không dè bị quân lính bảo hộ theo dấu ép bức quá, nghĩa binh vội vàng, chỉ chạy thoát lấy thân, còn bắp thì bỏ lại ở Ban Bực hết thảy, chẳng đem theo được nắm mớ nào. Nay trở về núi Quạt, binh số nhân khẩu lại tăng lên thập bội, thành ra không những quân sĩ phải đói mà thôi, chính Phan đang đau bệnh lị càng ngày càng nặng thêm, mà thuốc men chẳng qua chỉ có mấy cái rễ cây đào bậy trong rừng sắc cho cụ uống, còn sự ăn thì bữa cơm bữa cháo, khi có khi không, thảm hết sức thảm.
Đến lúc bí nước tuyệt lương như vầy, thì 2700 quân sĩ phải làm thế nào? Tuy có mua lén được ít nhiều lúa gạo, nhưng đến nấu cháo lỏng mà húp mỗi người đôi ba muổng cũng không đủ, khoan nói gì đến cơm. Đói quá, quân sĩ phải đào những củ nâu và những rễ này rễ kia trong rừng mà ăn đỡ lòng; nhưng nó lạt quá, không chịu được, họ lại phải nhổ mấy cây lau sậy đốt ra thành than, làm như là muối, để chấm mà ăn với củ nâu cho đỡ lạt.

Lại gặp nhằm mùa lạnh đã bắt đầu, trên rừng núi còn lạnh hơn dưới đồng bằng; quân sĩ không còn món đồ gì là món đồ ngự hàn và cũng không có đủ dinh trại che sương che gió, tự nhiên có người phải nằm càn giữa rừng. Họ lấy cây lá phủ lên trên cho ấm. Có người đói rét đến đổi mỏi mệt, mê man, đêm nằm giữa rừng, bị cọp beo tới ăn lúc nào không hay.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Phan Đình Phùng 26_đọc truyện sex hay việt

Trang 26 trong tổng số 28

Chương 19 Núi Vụ Quang huyết chiến
Lúc này chính Phan tự biết rằng mình với cái ngày cuối cùng thấy càng xáp gần lại nhau lắm rồi, chẳng còn xa cách bao nhiêu nữa.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Nếu phải là người ham sống sợ chết, thì bây giờ chỉ có việc treo lên một vuông cờ trắng, rồi đem quân gia khí giới ra đầu hàng, quy thuận bảo hộ tất là được dung thứ trọng đãi ngay, mặc dầu 10 năm một tay cụ đã làm cho bảo hộ hao tốn bộn bàng quân lính và tiền bạc. Dám chắc, nếu Phan chịu ra hàng, thế nào cũng được biệt đãi hơn những đề đốc Lê Trực và Tấn sĩ Phan Trọng Mưu rất xa. Một là vì cuộc bảo hộ mới lập xong buổi đầu, người Pháp cần thâu phục nhân tâm hơn là ham muốn sát phạt, nghiêm khắc. Hai là, nói cho công bằng, đối với mấy tay lãnh tụ văn thân cứng cõi, gan dạ, như bậc Phan Đình Phùng, bảo hộ vì lẽ chính trị phải đánh dẹp thì đánh dẹp, chứ trong thâm tâm của những người Pháp chuộng công là nhân đạo vẫn quý trọng ai là người biết yêu nước quên mình như thế.
Tôi không dám đâu khí mình được xem hết thảy những sách của chính gia võ tướng Pháp biên chép về các võ công đánh dẹp buổi đầu bảo hộ, nhưng mà dám nói rằng ít nhiều cuốn tôi được xem, trong đó mỗi khi nói đến Phan Đình Phùng, thì họ đều viết “Le rebelle” (người không chịu phục nhà nước) hay là "Le docteur rebelle" (ông nghè phản đối), chứ không gia cho cái tiếng nặng là "pirate" hay "bandit" (quân giặc cướp), như đối với Đề Thám. Chính ngay Đề Thám, nhiều người Pháp nói đến, ví dụ như Paul Chack, gọi là "bandit", nhưng ông Toàn quyền Paul Doumer nói ngay thẳng: "Đề Thám không phải là ăn cướp, mà chính là tay đầu đảng An Nam phản đối chống cự và đánh nhau với ta đã 10 năm nay”. Vậy cho biết rằng lẽ phải thì ai có bụng công bằng cũng quý chuộng nhìn nhận, không cứ là người nước nào.
Chắc độc giả còn nhớ có một đoạn trên kia tôi đã nói chính Phan đã cảm hoá Đề Thám cả quyết nổi lên phản đối ở Bắc hà; những ngày tháng cuối cùng của Phan ở khoảng Hồng Lam tức là ngày tháng bắt đầu của Đề Thám dấy lên ở miệt Yên Thế vậy. Ta nên biết tình thế đến lúc Đề Thám, cuộc bảo hộ đã vững vàng nền móng lắm rồi, mà Đề Thám giả hàng còn được bao dung trọng đãi đôi ba phen, huống chi là sớm hơn đó mười mấy năm, nền móng bảo hộ mới đắp còn chông chênh vất vả, tự nhiên nếu Phan chịu ra hàng, tất được trọng đãi bao dung. Đã vậy mà nhân phẩm Phan cũng cao hơn nữa, đáng cho bảo hộ cần thâu phục cảm hoá hơn.

Tôi muốn nói dông dài ở chỗ này cốt để tỏ ra thời cơ rất thuận tiện cho Phan quy hàng bảo hộ chắc được yên thân, xong việc biết bao. Nhưng mà cụ, lâm vào đường cùng cảnh khốn đến như lúc đang nói đây, vẫn giữ vững tâm chí thẳng như tên, cứng như sắt, thà chịu đói, chịu khổ chịu đau đớn đủ thứ, rồi chịu chết bỏ xác giữa rừng, chứ không chịu quăng súng xuống đưa tay lên, để cầu sự yên ổn phú quý; thế là biết cụ khí khái can cường đến bực nào vậy.
Nhất là tự biết mình chết đến nơi mà cứ ông dung, cứ không khái, cứ tự nhiên!
Thật vậy, lúc này cụ dư biết mình đã lâm vào tuyệt lộ rồi, việc cứu quốc cần vương đến lúc hư hỏng tan tành nhân lực, không làm sao cãi lại được nữa. Vốn là nhà nho, cụ tin nơi thiên mệnh có lạ gì. Nhưng cụ cũng tự biết nhân lực không đủ. Ta nhớ trong bức thư trả lời Hoàng Cao Khải, cụ chẳng tự sánh việc mình làm như kiểu con bọ ngựa nhỏ nhoi muốn dơ tay lên cản chiếc xe to lớn đó sao!

Có điều là vì khí tiết, vì danh nghĩa, vì phận sự làm tôi đối với vua, làm dân đối với nước, đã trót ra tay thì phải làm tới chết.
Vậy thì nay còn có đôi chút sức thừa nào, cũng đem ra cho hết, để chết một cách oanh liệt, không cần phải dè dặt sức mình hầu dùng mai sau như mấy năm trước. Thì đóng quân ở trên một trái núi thuộc về thung lũng Vụ Quang, gần bên quân lính bảo hộ, nghĩa là cụ Phan không trốn sự đánh chút nào.
Không ngờ trận đánh ở Vụ Quang, cốt đánh để tháo đường và liều thân, lại là trận đánh dữ tợn nhất, thống khoái nhất cho nghĩa binh từ 10 năm nay. Đã nói cây đèn hết dầu bao giờ cũng phựt lên một cái sáng loà rồi mới tắt.
Hồi này cụ có ý buồn bực lắm. Phần thì buồn về công việc hư hỏng, phần thì mấy tháng nay khổ sở bôn tẩu mãi, thành ra tuổi chưa mấy già mà người đã suy yếu nhiều lắm.
Có bữa, cùng mấy viên tuỳ tướng đi dạo chơi trong rừng, phía trước thảo trại, cụ Phan ngó lên thấy đám mây bạc ở xa xa, chạnh nhớ đến nơi phần tử đang bị tan hoang phiêu dạt vì mình; hương khói và xương cốt tổ tiên mình bị lạnh lùng bới móc lên cũng vì mình, cụ lấy làm cảm động đau đớn hết sức. Trông về phía bắc mịt mù, nhớ đến vua chúa cũng đau lòng; cho tới nghe tiếng chim kêu vượn hú, lá rụng cây reo mỗi mỗi đều gợi mối quan hoài tương cảm ở trong cõi lòng sâu xa, khiến cho cụ bùi ngùi vô hạn.
Một lúc cụ phải bật tiếng thở dài, nói với mấy viên tuỳ tùng tướng sĩ:
- Trước kia ta nghe những tiếng này, trông thấy những cảnh này, lòng ta phấn khởi biết bao, tưởng chừng gặp kẻ đối địch chỗ nào ta cũng nhảy tới bóp cổ moi gan ra ăn được mới khoái. Nhưng bây giờ cũng trông thấy cảnh này, nghe những tiếng này, lòng ta tê tái rầu buồn hết sức. Người có chí làm việc lớn mà trời không cho làm được, ở đời còn có nỗi gì đau đớn hơn nữa!

Rồi cụ chỉ tay ra phía xa và nói:
- Ngó non sông tốt đẹp thế kia mà không phải của mình làm chủ nữa, thảm chưa?
Những người đi theo nghe mấy lời ấy đều ứa nước mắt; chừng ngó lại chủ tướng, té ra thấy hai gò má cũng điểm nhiều giọt lốm đốm như giọt sương mai, từ cặp mắt đỏ hí kia vừa mới nhỏ xuống. Thầy trò khóc với nhau giữa rừng!
Than ôi! một người anh hùng có chí vẫy vùng bốn biển, cứu hộ muôn dân, muốn xoay lại non sông, chọi với thời thế, mà nay bị xô, bị nhốt vô trong vòng cùng đường bí nước như vầy, không phải bi thương thốc khốc sao được. Có lẽ cây kia đá nọ cũng phải nhỏ mồ hôi và nát trong ruột nó giùm cho, đừng nói chi là chính người đang có thân thế, cảnh ngộ ấy!

Nhưng đã nói với Phan có cái quyết tâm rằng mình còn chút hơi nào cũng gói ghém lại để đem ra chống chọi với thời cuộc cho hết, tới lúc xuôi tay nhắm mắt mới thôi. Bởi vậy không thể nào đối cảnh mà ngậm ngùi bi thương mãi được, cụ phải nghĩ cách chống cự với giặc, kẻo nghĩa binh tạm đóng trên núi này, thế nào sớm muộn nay mai quân lính bảo hộ cũng tới vây đánh, không sao tránh khỏi. Điều ấy chính cụ đã tự liệu trước rồi.
Ngó xuống sông Vụ Quang thấy quanh co một giải trắng phau, nước cuồn cuộn, cụ Phan đổi ngay sắc mặt buồn ra vẻ vui mừng:

- Nếu quân Pháp kéo tới đánh ta, thì con sông kia có thể cự địch được lắm.

Tướng sĩ ngẩn ngơ, không ai hiểu được là ý gì, trừ ra một mình Nguyễn Mục hình như hiểu thấu quân cơ này, cho nên sau khi cụ Phan nói rồi, nghe ông ta ông thanh mà tiếp:
- Chắc họ được uống nước sông đó một bữa no nê.
Rồi đó thầy trò lững thững trở về thảo trại thương lượng việc quân.
Quả nhiên chỉ cách vài ngày sau, quân lính bảo hộ biết tin nghĩa binh đang đóng trên trái núi bên kia, liền thăm dò địa thế để kéo binh tới công kích.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Phải biết mỗi ngày nghĩa binh đều cử ra một vài người giả làm chú tiều, xách búa qua núi Vụ Quang chặt củi, kỳ thật để xem xét binh lính của bên đối địch. Lính tập ngó thấy, nhưng tưởng là dân núi đốn củi thật, không nghi ngờ gì. Mấy chú còn lân la nói chuyện với họ và hút thuốc của họ mời nữa là khác. Nhờ vậy mà công việc xếp đặt của lính tập ra sao nên nghĩa binh biết cả.
Khi được tin về cáo cấp, cụ Phan hội chư tướng lại để bàn cách chống cự. Lần này cụ có trận thế sắp đặt trong lòng và có chủ trương nhất định, cho nên không có ý lo ngại và tính kế lui binh như mấy lần trước. Nhưng các tướng lúc bấy giờ đều có sắc lo, là vì hiện thời nghĩa binh chẳng những quân lương đã thiếu thốn cực khổ, mà ngay khí giới súng đạn cũng không còn sót lại được bao nhiêu, nếu phải cầm cự lâu ngày như ở Đại Hàm trước kia thì khốn. Họ lại suy nghĩ trái núi mình tạm trú đây không có hình thế chi hiểm yếu thuận tiện, vậy thì lấy gì mà chống giữ cho được. Còn sự trông mong ở các quân thứ kia đem binh tới cứu viện cũng không xong, vì hồi này quân thứ nào cũng nguy như nhau hết thảy. Hoặc đã vỡ lở, hoặc bị nghẹt đường, đến vận lương ăn còn không được, còn nói đem binh đi cứu viện thế nào? Nhưng tới khi nghe cụ Phan nói rõ kế sách không địch, một mình Nguyễn Mục giữ vẻ tự nhiên, bởi ông ta đã đoán biết từ trước rồi, còn tướng sĩ đều có vẻ hớn hở vui mừng hiện trên nét mặt.
Kế ấy thế nào?
Tức là ở trong câu nói Phan đã nói bữa trước: "Con sông kia có thể cự địch được".

Thật vậy, bây giờ cụ nói rõ cho chư tướng nghe:
- Phải dùng kế "sa nang ông thuỷ" của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa mới được.

Liền đó, cụ truyền lệnh cho quân sĩ lên tuốt trên đầu nguồn, mượn lấy những khúc gỗ lim to lớn của bọn lái buôn cây đã chặt sẵn sàng để ở trên ấy; ngoài ra lại tự chặt thêm mấy trăm cây lớn nữa. Trên miệt rừng núi này thiếu gì cây to. Những cây ấy, quân sĩ chịu khó ra sức ghép liền lại với nhau, thành từng bè lớn, vừa đóng suốt thân cây này qua cây kia cho chặt, vừa lấy mây trong rừng cột lại thật cứng, rồi đặt ngay trên nguồn làm như hàng rào hay cánh cửa để chặn ngay đầu nguồn của sông Vụ Quang là sông phát nguyên từ trên núi này chảy xuống. Nghĩa binh cốt chận đầu nguồn cho nước dưới sông cạn nhiều, sẽ dùng kế dụ địch cho quân lính bảo hộ qua sông; đợi họ qua tới giữa sông thì bấy giờ trên đầu nguồn chặt giây cho nước đưa cây trôi xuống ào ào như thiên binh vạn mã, và ngay mé sông chỗ đó lại đặt phục binh, thế nào quân lính bảo hộ cũng phải tử thương không ít.
Quân sĩ y theo kế ấy mà làm gấp rút cho xong.
Những người gác ở đầu nguồn cầm sẵn dao sắc búa lớn trong tay đợi nghe có ám hiệu phát lên thì đồng thời chặt giây mau lẹ cho cây trôi xuống phăng phăng một lượt.

Cái kế "Sa nang ông thuỷ" của Hàn Tín đánh Sở ngày xưa là vậy đó. Chỉ khác là Hàn Tín xưa dùng bao cát để chận nước lại, thì bây giờ cụ Phan dùng cây gỗ.
Quả thật, quân lính bảo hộ kéo qua đánh trái núi có đồn nghĩa binh lúc quá nửa đêm.
Trước khi quân lính bảo hộ chưa đến nơi, thì cụ Phan đã kéo binh sĩ dời qua đóng trên một thung lũng núi khác.
Lính tập đến vây bọc trái núi có lấp ló đồn trại nghĩa binh ở trên, mấy phía đều chĩa súng lên đó mà bắn như mưa rào. Nhưng họ bắn hoài huỷ, không thấy nghĩa binh ở trên bắn trả một tiếng súng nào. Ban đầu tưởng là nghĩa binh nằm mọp ẩn núp chung quanh đâu đó, nhưng tới sau bắn trúng vô những đồn trại bằng cây lá, phát lên cháy nghi ngút, cũng không thấy dấu tỏ động tĩnh của nghĩa binh, bấy giờ họ đoán chắc là nghĩa binh đã sợ hãi bỏ chạy từ hồi nào rồi, đồn trại chỉ là đồn tại bỏ không đó thôi. Viên tướng cầm quân liền hô quân xông lên núi thử xem hư thật. Lên đến nơi, thấy còn sót lại năm bảy cái nhà lợp tranh chưa cháy, lính tập áp vô cũng chẳng thấy bóng người nào hết, trong mỗi nhà tranh chỉ có ít nhiều khí giới là dao cùn, gươm mẻ, bỏ nằm ngổn ngang. Quân lính bảo hộ thấy vậy càng tin chắc nghĩa binh sợ thua đã bỏ trại dông trước rồi, chứ trong ý không nghi chút nào là có mưu kế.
Trong khi lính tập đang lục lạo ngẩn ngơ ở trong những đồn trại bỏ không như thế, thì bỗng dưới chân núi có một toán quân, độ một trăm mấy chục người, nổi trống phất cờ, và hò hét nhau làm như muốn kéo lên núi mà đánh. Rồi tiếng súng nổ đùng đùng tứ phía, khiêu chiến quân Pháp.
Quân Pháp thấy giặc, tức tốc đổ quân xuống núi để đánh và đuổi bắt. Hai bên ứng chiến xa xa bằng súng đạn một chặp, đạo quân kia xem dường yếu thế vội vàng phải lui, nương theo những lùm cây và mô đất để tránh đạn. Nhưng đạo quân bại tẩu chỉ chạy một khúc đường lại nằm phục xuống bắn trả lính tập một hồi lại chạy. Cứ chạy lại bắn, bắn lại chạy, tới đôi ba lần như thế, lính tập càng cố rượt theo để bắt sống cả bọn cho kỳ được mới nghe.

Ra tới sông Vụ Quang, đạo quân bại tẩu cứ chạy dựa bên mé sông, đến một chỗ thấy nước hơi cạn, thì bỏ hết cả cờ trống và quân giới lại mé bờ, rồi tranh nhau lội qua sông để thoát thân cho mau. Quân Pháp vẫn đuổi riết ở phía sau, tới chừng thấy quân kia sang sông, thì quân mình cũng ùa xuống mà sang, nước chỉ ngập trên đầu gối.

Lúc quân Pháp lội ra đến lòng sông, bỗng dưng nghe trên núi cao có một tiếng lệnh nổi lên làm hiệu, tức thời bọn quân sĩ canh trên đầu nguồn, đồng thời chặt giây, tháo hết bè cây ra, cho cây trôi xuống. Lạ gì nước trên nguồn, bị cây chặn lại, tức đường bí lối đã lâu, nay cây tháo ra, tự nhiên nước có đường chảy xuống ào ào, cây theo nước từ trên cao trôi xuống phăng phăng rất mạnh. Quân lính bảo hộ vô tình, lại không may trời có sương mù, không thấy đàng xa, vả lại bị phục binh bắn xuống tưng bừng, nên chạy không kịp, bị những cây to xô ngã rồi trôi theo nước, chết đuối lềnh bềnh trên sông nhiều lắm.
Trận này, phía quân bảo hộ, không kể lính tập, chết mất ba viên quan võ Pháp, và nghĩa binh lấy được gần năm chục khẩu súng, cùng là đồng hồ, giây nịch bằng da và tiền bạc vô số. Thật là một trận đánh chỉ cốt đánh để thoát thân, mà té ra lại là một trận đại thắng từ trước đến nay chưa có vậy.

Về sau, một người chí sĩ là Phạm Văn Ngôn, đi qua chỗ này có làm hai bài thơ "Hoài Vụ Quang cố sự", tiếc rằng tôi chỉ nhớ có một bài như sau:

Phi vi hiểu vụ toả hàn khê,
Châu lạp ô thương phục ngạn tê.
Nhất hưởng đồng la hàm sát tặc,
Đại gia tề quyết thượng lưu đê.

Dịch là:

Gió lạnh sương mù buổi rạng đông,
Ba quân phục sẵn ở bên sông.
Chiêng khua một tiếng quân reo dậy,
Đê phá trên nguồn nước chảy hung.

Tức là bài thi kỷ niệm thực sự của trận đánh này vậy.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Phan Đình Phùng 25_đọc truyện sex hay việt

Trang 25 trong tổng số 28

Chương 18 Thiếu chút nữa cụ Phan bị bắt sống
Quân lính Bảo hộ giàn trận ở mặt trước núi Đại Hàm mà đánh ròng rã hai tuần, thiệt thòi nhân mạng và đạn dược nhiều rồi, nghĩa binh ở trên núi vẫn cố sức cầm cự dằng dai, không hề nao núng.
Nghĩa binh can đảm đã đành, nhưng cũng may là đời bấy giờ chưa phải là đời có xe tăng, có máy bay, có độc khí; nếu trái lại, thì nghĩa binh nhà mình cầm cự không được nửa tiếng đồng hồ và mấy quả núi Đại Hàm cũng chẻ hai ra rồi. Bởi vậy, người lấy gan mình, sức mình ra chọi nhau, vẫn có giá trị hơn là mượn máy chọi người; chính là ông thánh Gandhi ở ấn độ nói thế.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Nhất là nghĩa binh ở trên núi chỉ có 400 thầy trò với 200 khẩu súng, mà ở dưới núi vừa lính tập, lính tuần và tráng đinh mấy làng phụ cận phải ra phục dịch quan quân cả thảy có tới ngàn người; một đàng lấy bóng cây kẹt đá làm mạnh; một đàng lấy người đông, súng tốt làm mạnh, kể ra nghĩa binh cầm cự dây dưa được gần nửa tháng cũng là lâu lắm rồi.
Trong một cuộc đối chiến bất đồng về số người và sức mạnh như thế, bề nào bên ít, bên yếu cũng phải thua là lẽ tự nhiên.
Toán viện binh 150 lính ở Nghệ kéo đến tiếp chiến, làm cho nghĩa binh thêm mau bại tẩu hơn nữa. Bây giờ, quân lính Bảo hộ phân ra hai ngả mà đánh: một nửa cứ ở mặt trước núi trấn áp, một nửa kia thì chen gai lách đá, luồn ra phía sau núi, để xuất kỳ bất ý, đánh úp lên sào huyệt nghĩa binh. Trong trí nhà cầm quân dùng tới chiến lược này, nhất định bắt sống Phan Đình Phùng và trói thúc ké nghĩa quân hết thảy.
Nhưng, trời còn bắt phải gian nan hơn nhiều nữa, chứ chưa để cho họ Phan và mấy trăm tráng sĩ phải cùng đường ngửa cổ tại đây.

Luôn mười mấy ngày làm phận sự, chủ tướng phải trông nom việc quân giữa lúc chiến đấu, lại còn một nỗi ăn ở cực khổ châm thêm vào, chẳng cần phải tả, ai cũng đoán biết cụ Phan nhọc mệt dữ lắm.

Chiều tối bữa thứ mười lăm, ăn một vài nắm cơm khô chấm muối xong rồi, cụ Phan dặn dò hai tướng Cao Đạn, Nguyễn Mục những chỗ quân cơ chiến lược nội đêm nay, để mình yên tâm nằm ngủ được vài trống canh cho khỏe. Một thanh bảo kiếm để luôn bên mình, và rút ra ngoài vỏ sẵn sàng, mỗi khi nằm ngủ, luôn 10 năm nay, đêm nào cũng thế; Cụ nói với người nhà: "Để phòng khi lâm nguy bất trắc, mình đem chém đầu kẻ nghịch hay là tự đâm họng mình cho kịp".
Đêm đó, lối vãn trống canh hai, khoảng 10 giờ hơn, cụ đặt mình nằm xuống lâu rồi mà đang thao thức suy tính chứ chưa ngủ được; bỗng thấy tinh thần hồi hộp, chập chờn, con mắt thì máy lia và ruột nghe sao nóng nảy như bào như đốt. Cụ giật mình suy nghĩ chắc là có chuyện gì nguy biến xảy đến nơi, cho nên thần hồn báo trước cho thần tính đây chăng? Tức thời cụ ngồi nhổm dậy, đánh thức người cháu gọi cụ bằng chú ruột mà nói:
- Quái kỳ! Ta đang nằm trằn trọc chưa ngủ được, chợt nghe trong mình phát ra nóng ruột và con mắt cũng máy dữ, chắc là có điềm gì lạ đây. Cháu dậy thấp cây đèn lên, để chủ bói thử một quẻ xem nào!
Tự nhiên việc thấp đèn ở sơn trại, chính nhà cụ ở là việc rất quan hệ, nên cụ phải dặn trước người cháu:
- Nhớ che đậy bóng sáng cho khéo kẻo quân Pháp ở dưới ngó lên thấy hơi sáng lập lòe, nó đãi cho một vài viên đạn thì khốn.
Vì, trên kia đã nói cho độc giả biết, đêm tối trên núi cốt làm đèn đuốc lập lòe ở chỗ khác, cách xa, để làm nghi binh, còn chính đại trại và cái chòi cụ ở thì cải cấm tuyệt đèn lửa.
Người cháu thắp đèn che kỹ rồi bưng lại, cụ Phan lấy quyển kinh "Dịch" và mấy đồng tiền trinh ra gieo quẻ bói. Giữa lúc ấy còn ngày "Dần" mà cụ bói được quẻ:

Mão quỷ phát động

Trừng mắt thở dài ra vẻ kinh ngạc, cụ nói với cháu:
- Chà chà! Sự thế nguy biến đến nơi rồi. Ngày mai chính là ngày "Mão" mà nay thần ông ra quẻ này thì mai đây thế nào quân Pháp cũng úp phá đồn trại của ta, chắc chắn.

Tức thời, cụ sai lính vệ sĩ đi đòi Cao Đạn và Nguyễn Mục vô thương nghị khẩn cấp.
Hai ông này tay gươm vai súng, lật đật vô hầu.

Cụ kể lại cho nghe từ điềm lạ máy mắt sốt ruột cho tới ý nghĩa quẻ bói mà thần mới ông cho rồi nói:
- Thế nào ngày mai quân địch cũng úp phá tới sào huyệt ta, mà tất là chúng lén bọc ra phía sau mà lên núi, vì mặt tiền có quân ta cầm cự và mai phục, hẳn chúng không tấn lên phía trước được đâu. Sự thế trước sau cùng thọ địch như vậy mà quân ta ít, súng ta ít, lại đạn dược gần kiệt rồi, nếu ta dồn binh về mặt sau thì mặt trước hỏng mất, mà giờ cứ cấm cổ chống giữ lấy mặt trước thì mặt sau bỏ trống, để chúng thừa hư tập kích được, đố khỏi bà con ta làm tù cả đám. Ta phải tức tốc lui binh, bỏ núi này đi mới xong.

Cao Đạm, Nguyễn Mục muốn kéo binh đánh tràn xuống mặt trước núi, liều mạng phá tan vòng vây mà chạy. Vì hai ông suy tính quân Pháp đã định phân ra bọc đánh ngả sau nghĩa binh, thì tất là mặt trước để hư không. Nghĩa binh có thể liều chết phá vây được. Nhưng cụ Phan không nghe:

- Tính làm cách đó, vạn tử nhất sinh, nguy lắm. Phải biết họ dùng binh cẩn thận, cơ mưu, chứ không như các người liệu đoán đâu. Họ cốt vây bọc ta trước sau cùng thọ địch, nhưng không khi nào lại để hư không mặt trước. Ta kéo tràn đánh xuống tức là đưa thịt vô miệng cọp. Bởi vậy, ta quyết định bỏ núi lui binh, nhưng phải rán bảo toàn lấy binh lực hầu dùng về sau, chứ không để tổn thương vô ích, vậy thì quân ta cứ lui đi mặt trước, có điều là đi xuyên đường rừng, không nên chường mặt cùng họ giao chiến làm gì nữa.
Tướng sĩ đều phục cái định kế ấy hoàn toàn hơn.
Liền ngay lúc đó, cụ sai đi kêu gọi hết thảy quân lính ở các chỗ đang ứng chiến và mai phục phải bỏ trận địa lục tục kéo về đại trại, lật đật nấu cơm và thu xếp khí giới vật dụng: lệnh truyền đến 2 giờ khuya ăn cơm rồi nai nịt sẵn sàng để gà gáy lần thứ nhất thì nhổ trại lui binh. Nhiều quân sĩ còn đang hăng hái, muốn đánh, nhưng tướng lệnh đã ra, không ai dám trái.
Không dè nghĩa binh dự bị chưa kịp, thì nghe tiếng gà sơn thôn đã gáy hai dạo rồi.
Quả thiệt, quân lính bảo hộ do ngả sau đã tấn lên đến nơi. Trời mới sáng mờ mờ, một chó tây dùng trong việc quân, đánh hơi đưa đường chạy sồng sộc vô tới trong sân trại. Nguyễn Mục ngó thấy đưa súng lên bắn con chó một phát, nhưng nó chạy khỏi. Quân lính bảo hộ đang chen cây lách đá, nghe tiếng súng nổ, liền nhắm chừng hướng ấy và dõi theo vết chân con chó dẫn đường mà tới. Bởi đá núi lởm chởm gập ghềnh, cây cối gai gốc rậm rạp, thành ra quân lính bảo hộ tấn lên hơi khó và lâu. Tiếng súng của Nguyễn Mục bắn con chó thật là bất trí, nếu như không có tình thế hiểm trở của núi rừng làm chậm trễ sự tiến binh của quân lính bảo hộ, thì có lẽ cụ Phan bị bắt rồi.
Trong khi quân lính bảo hộ đang lần đường theo dấu ở phái sau, thì nghĩa binh đã phò được cụ Phan đi ra cửa trước mà xuyên theo đường lối trong rừng chạy thoát được rồi.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Một lúc, quân lính bảo hộ tấn vô đến nơi, chỉ thấy dinh trại trống lổng, đồ vật bỏ lại ngổn ngang, chứ không còn một người nào. Họ cướp được đồn trại của nghĩa binh rồi thôi, không rượt theo nữa. Vì sự thật, cây cối rậm rì, đường lối chẳng thấy, nên không biết nghĩa quân lui chạy đàng nào mà rượt theo cho được.

Tướng sĩ hộ vệ cụ Phan chạy đường rừng, bao nhiêu đồ vật và lương thực mất hết, không kịp đem theo một chút gì.
Chuyến này tình cảnh nghĩa binh lao đao vất vả quá, lại thêm nỗi đói khát lạnh lùng, nên chi quân sĩ chết ở giữa rừng hết nhiều. Lắm người đói lả đuối sức, chạy theo không kịp, phải nằm phục vị ở giữa rừng, đào rễ cây mà ăn, rồi đốt lá mà sưởi, vì mùa này khí hậu rừng núi càng lạnh lẽo hơn dưới đồng bằng. Chính người cháu ruột của cụ cũng nằm lả bên khe suối, may phước có mấy tên quân xúm lại vực dậy đem đi.

Trong lúc người ta ở hương thôn thành thị ăn Tết năm Mùi (1895) thì nghĩa binh lao đao đói khát ở giữa rừng sâu núi thẳm.

Đến mồng 6 tháng giêng, nghĩa binh mới kéo về tới núi Quạt, đồn trú tại đó là quân thứ ở huyện Hương Khê. Kiểm điểm binh sĩ, còn lại hơn hai trăm người mà ai nấy đều xanh xao gầy ốm, vì nỗi bôn ba cơ khổ ròng rã một tháng trời; cụ Phan và hai tướng Cao Đạm và Nguyễn Mục cũng vậy.
Bấy giờ nội tình nghĩa binh đã bối rối lắm. Vì nỗi lương thực thiếu thốn. Lúc nào dân làng gánh gạo bắp heo gà lên núi cho nghĩa binh như là đi chợ, nhưng mấy tháng này bị nhà chức trách cai trị địa phương canh phòng các ngả và hăm doạ gắt gao, thành ra họ không dám tiếp tế lương thực cho nghĩa binh như lúc trước nữa. Nhiều người sốt sắng quá, đến đỗi liều mạng vận lương cho “giặc” mà bị mất nghiệp bay đầu. Có người mười phần vô tội vô tình, cũng bị liên luỵ, chỉ bởi kẻ tiểu nhân oán thù vu cáo.
Kho tàng lúa bắp trên sơn trại, càng bữa càng khô mà sự tiếp tế mắc nghẹt. Cụ Phan phải sai quân sĩ giả làm nông dân hay thương khách sang tỉnh Quảng Bình mua từng năm ba chục gánh gạo, bắp, chở lén theo đường rừng, đem về cho quân sĩ ăn. Tội nghiệp quá! Có nhiều khi lúa bắp đi mua chưa vận về kịp, quân sĩ phải nhịn đói đôi ba ngày chỉ uống nước lạnh trừ cơm là sự thường. Tuy vậy, không ai kêu la, than thở một tiếng nào; trái lại, họ vẫn vui vẻ thề nguyền kháng chiến đến chết mới thôi, cực khổ đã quen, đói rét chẳng kể. Thấy lòng quân không khít như thế, cụ thường cảm động khóc lóc một mình. Người cháu hầu hạ bên cụ, có lúc nửa đêm nghe cụ thở dài và nói lầm rầm:
- Vì ta mà khổ sở tướng sĩ. Có dân tâm thế ấy mà nhân lực không có, thiên mạng không giúp, thảm biết bao nhiêu!
Người anh hùng đến bước mạt lộ, đêm trường canh lụn, nằm than khóc một mình như thế, càng thảm hơn nữa.
Lụi đụi tới tháng 5 năm ấy (năm Mùi, 1895) Nguyễn Thân kéo đại quân ở kinh thành ra đến nơi, tình hình lương thực của nghĩa binh càng thêm chật hẹp nguy khốn. Là vì bao nhiêu lối hiểm đường quanh đều có lính tráng của Nguyễn Thân bủa giăng chận nghẹt thành ra nghĩa binh trên núi tuyệt lương.
Độc giả nhớ phân biệt hai tiếng này giùm: trước kia lương thực chỉ "thiếu" cũng đủ khốn khổ, bây giờ đến "tuyệt" mới nguy!
Liệu bề ở núi Quạt thì sớm muộn thầy trò cũng chết đói đến nơi, cụ Phan hạ lệnh nhổ trại, định kéo quân về nơi sào huyệt cũ là núi Vụ Quang. Tại đây có địa lợi hơn, vì đã có đường rừng lại có đường thuỷ nữa, có lẽ công cuộc vận lương cũng dễ xoay trở.

Lúc đó là tháng 7.
Nhưng nghĩa binh kéo đến mé sông Vụ Quang, cụ Phan cẩn thận, sai 4 tên vệ sĩ qua sông dò thám trước. Té ra những đồn trại của nghĩa binh trên núi Vụ Quang hồi xưa đã bị quân lính Pháp chiếm giữ lúc nào rồi, lính tập đầy nhóc.

Cụ Phan dòm xét địa thế, rồi lật đật đem quân sang đóng trên một trái núi khác, cách không bao xa và cũng thuộc vào thung lũng của núi Vụ Quang. Nghĩa binh chặt cây cắt cỏ, cất lên dinh trại lụp xụp mà ở tạm đỡ.

Biết trước rằng mình đóng binh ở đây, thế nào nay mai quân lính bảo hộ cũng áp tới đánh, cụ Phan phải tính cách chống cự sẵn sàng.
Vì đó mà nay mai có trận huyết chiến Vụ Quang, chính là một trận đánh để tháo thân, mà lại là một trận đánh dữ dội nhất. Cây đèn cạn dầu sắp tắt, bao giờ cũng phựt lên một cái sáng loà!
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị